Ảnh hưởng và cách phòng chống thừa cân béo phì ở trẻ em

Ảnh hưởng và cách phòng chống thừa cân béo phì ở trẻ em
5 phút, 9 giây để đọc.

Khi trẻ có đôi má phúng phính; và đầu gối mũm mĩm; bố mẹ sẽ cảm thấy trẻ trông đáng yêu hơn. Nhưng một số trẻ bụ bẫm và đáng yêu đó; lại có thể đang đối mặt với một số vấn đề về sức khỏe. Nếu bạn cùng với con đang đấu tranh về vấn đề cân nặng. Béo phì ở trẻ em gây ảnh hưởng đến nhiều gia đình trên toàn cầu. Nhưng phần lớn là có hồi phục được. Thêm vào đó, bạn có thể hỗ trợ và động viên; là tấm gương tốt giúp con đạt được cân nặng khỏe mạnh mong muốn và có thể duy trì nó lâu dài.

Ở các nước phát triển hiện nay; cứ 4 trẻ nhỏ thì sẽ có 1 em bị thừa cân. Thừa cân ở trẻ dẫn đến nguy cơ mắc phải những vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng; như bệnh đái tháo đường; tim mạch hoặc hen phế quản. Trẻ em bị béo phì cũng có thể tâm lý bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trẻ em bị béo phì thường hòa nhập với bạn bè; gặp thường hay gặp phải các vấn đề; khi tham gia mọi hoạt động thể thao. Bên cạnh đó, một số trẻ khác có thể trêu ghẹo, cô lập; nặng hơn là xa lánh, kỳ thị chúng; dẫn đến hậu quả là trẻ tự ti; tủi thân, mặc cảm về ngoại hình; và có thể bị trầm cảm.

Nguyên nhân

Trẻ bị TC-BP chủ yếu là do dinh dưỡng bất hợp lý và ít hoạt động thể lực. Khẩu phần năng lượng ăn vào vượt quá nhu cầu năng lượng của cơ thể; do đó năng lượng  dư thừa được chuyển thành mỡ tích lũy trong các tổ chức. do đó những trẻ có chế độ ăn giàu chất béo; đậm độ năng lượng cao có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỷ lệ TC-BP

Trẻ có cân nặng sơ sinh quá cao; suy dinh dưỡng thấp còi đều có nguy cơ TC-BP – Trẻ ăn nhanh; hay ăn vặt, thích ăn ngọt, uống nước giải khát; thức ăn nhanh (fast food),  ăn nhiều vào buổi tối đặc biệt trước khi đi ngủ,

Yếu tố di truyền: trẻ mang một số gen trong các nhóm gen như nhóm gen kích thích sự ngon miệng; nhóm gen liên quan đến tiêu hao năng lượng; nhóm gen điều hoà chuyển hoá; nhóm gen liên quan đến sự biệt hoá và phát triển tế bào mỡ.  Những trường hợp này thường gặp ở trẻ có bố mẹ bị thừa cân-béo phì.

Ngủ ít cũng được xem như một là một yếu tố nguy cơ cao đối với TC-BP ở trẻ dưới 5 tuổi. Một số tác giả cho rằng hoạt động tiêu mỡ của cơ thể đạt tối đa về đêm và ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung.

Hậu quả của TC-BP đối với cơ thể

Béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tật của nhiều cơ quan; bộ phận trong cơ thể như:

Thoái hóa khớp, đau thắt lưng: khi trọng lượng cơ thể tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn; nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối; cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn thương và lão hóa nhanh. Hậu quả là gây đau đớn và khó khăn trong vận động, sinh hoạt hàng ngày của người bệnh.

Hệ nội tiết, chuyển hóa: tình trạng kém dung nạp glucose; kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường; rối loạn chuyển hóa mỡ máu, tăng acid uric gây bệnh gút,

Rối loạn tiêu hóa: dễ bị sỏi trong gan; gan nhiễm mỡ sớm do tiêu thụ lượng lớn đường fructose và chất tạo ngọt High fructose corn syrup  (HFCS) có trong nước có ga và các loại thực phẩm đóng hộp. Đường fructose và chất tạo ngọt HFCS đến gan sẽ chuyển hóa một phần thành acid béo gây tình trạng gan nhiễm mỡ

Béo phì có thể làm gan nhiễm mỡ
Béo phì có thể làm gan nhiễm mỡ

Ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ: khi bé bắt đầu đi học, sẽ dễ bị tự ti do bạn bè trêu ghẹo, chế giễu, dẫn đến chán chường, không muốn đi học. Dần dần các em trở nên thụ động, thiếu linh hoạt và cô đơn vì không có bạn. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến chứng trầm cảm.

Cách phòng chống thừa cân – béo phì ở trẻ

Dinh dưỡng hơp lý cho người mẹ trong thời gian có thai: Mức tăng cân hợp lý trong thời gian mang thai của bà mẹ là 10-12 kg. Cân nặng sơ sinh cao (>3500 gram) hoặc thấp (<2500gram) có nguy cơ TC-BP hơn trẻ có cân nặng sơ sinh trong khoảng từ 2500 gram-3500 gram.

Nuôi con bằng sữa mẹ: Cho trẻ bú sớm (trong vòng giờ đầu); bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục bú kéo dài cho đến khi trẻ được 24 tháng.

Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

Chế độ ăn bổ sung hợp lý: cho trẻ ăn bổ sung đúng thời điểm (khi trẻ tròn 6 tháng); ăn đủ số bữa theo lứa tuổi, khẩu phần ăn cân đối; phối hợp nhiều nhóm thực phẩm (nhóm lương thực, đậu đỗ, sữa/chế phẩm của sữa; thịt/các các loại, trứng các loại, rau các loại, các loại quả,củ quả có màu vàng/đỏ và nhóm dầu mỡ).

Tập thói quen cho trẻ ngủ sớm, ngủ đủ giấc: cha mẹ nên tập cho trẻ ngủ trước 21 giờ. Số giờ ngủ trung bình mỗi ngày tùy từng lứa tuổi: số giờ ngủ trung bình của trẻ sơ sinh, dưới 1 tuổi và từ 1-2 tuổi tương ứng là 14-17 giờ; 12-15 giờ và 11-14 giờ. Trẻ từ 3-5 tuổi là 10-13 giờ.

Nguồn: viendinhduong.vn

About Post Author

Hồng Thơm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.